Chế
định Thừa phát lại được chính thức được thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí
Minh kể từ ngày 09 tháng 9 năm 2009 – ngày Nghị định 61/2009/NĐ-CP có hiệu lực
thi hành. Sau hơn 03 năm được thí điểm, hoạt động của các Văn phòng Thừa phát lại
đã thu được kết quả khả quan, được xã hội, người dân đón nhận tích cực. Trên cơ
sở đó, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 về việc
tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, theo đó, chế định Thừa phát
lại sẽ được mở rộng thí điểm thêm 12 tỉnh thành khác trên cả nước đến hết ngày
31/12/2015.
Tuy
nhiên do đây là một chế định tương đối mới[1]
nên nhiều cơ quan, tổ chức cá nhân vẫn chưa hiểu rõ về tư cách, chức năng, khả
năng, nhiệm vụ… của Thừa phát lại, vì vậy để quý đọc giả có thể dễ dàng nắm bắt
nội dung tác giả muốn truyền tải, tác giả sẽ giới thiệu sơ lược những điểm cơ bản
của chế định Thừa phát lại.
Thừa phát lại là người có các tiêu chuẩn, được Nhà nước bổ
nhiệm và trao quyền để làm các công việc sau:
1. Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu
của Tòa án hoặc Cơ quan thi hành án dân sự.
Thừa phát lại được
quyền tống đạt văn bản của Tòa án, Cơ quan thi hành án dân sự các cấp trên địa
bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại, bao
gồm: Giấy báo, giấy triệu tập, giấy mời, quyết định đưa vụ án ra xét xử, bản
án, quyết định trong trường hợp xét xử vắng mặt đương sự của Tòa án; quyết định
về thi hành án, giấy báo, giấy triệu tập của Cơ quan thi hành án dân sự. Ngoài
ra trên cơ sở đề nghị của Tòa án, Cơ quan thi hành án dân sự, Văn phòng Thừa
phát lại có thể thỏa thuận để tống đạt các loại văn bản, giấy tờ khác.
2. Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân,
cơ quan, tổ chức.
Thừa phát lại có
quyền lập vi bằng đối với các sự kiện, hành vi xảy ra trên địa bàn tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương nơi đặt trụ sở văn phòng theo yêu cầu của đương sự.
3. Xác minh điều kiện thi hành án theo
yêu cầu của đương sự.
Thừa
phát lại có quyền xác minh điều kiện thi hành án liên quan đến việc thi hành án
mà vụ việc đó thuộc thẩm quyền thi hành của các Cơ quan thi hành án dân sự trên
địa bàn tỉnh, thành phố nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại. Khi thực hiện việc xác
minh, Thừa phát lại có quyền xác minh ngoài địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại trong trường hợp đương sự cư trú, có
tài sản tại địa phương đó.
4. Trực tiếp tổ chức thi hành án các bản
án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự.
Thừa phát lại được
quyền trực tiếp tổ chức thi hành theo đơn yêu cầu của đương sự đối với các bản
án, quyết định:
- Bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực của
Tòa án cấp huyện nơi Thừa phát lại đặt văn phòng;
- Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án cấp tỉnh
đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp huyện nơi Thừa phát lại đặt
văn phòng;
- Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án
cấp tỉnh đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện
nơi Thừa phát lại đặt văn phòng.
Trong
số các hoạt động trên thì hoạt động lập vi bằng theo yêu cầu của cơ quan, cá
nhân tổ chức được xem là một hoạt động mang lại nguồn thu cơ bản cho các Văn
phòng Thừa phát lại và là hoạt động nỗi bật nhất của Thừa phát lại tính đến thời
điểm này.
Theo
quy định tại Khoản 1, Điều 2, Nghị định 61/2009/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung
theo Nghị định 135/2013/NĐ-CP – sẽ có hiệu lực từ ngày 15 tháng 13 năm 2013)
thì “Vi
bằng là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dừng
làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác.”
Cũng
theo quy định tại Điều 25 về thẩm quyền, phạm vi lập vi bằng thì:
Thừa phát lại có
quyền lập vi bằng đối với các sự kiện,
hành vi xảy ra trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi đặt
Văn phòng Thừa phát lại theo yêu cầu của đương sự.
Thừa phát lại không được lập vi bằng đối với những việc liên quan đến
quyền, lợi ích của bản thân và những người là người thân thích của mình, bao gồm:
Vợ, chồng, con đẻ, con nuôi; cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội,
ông ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và anh, chị, em ruột của Thừa phát lại,
của vợ hoặc chồng của Thừa phát lại; cháu ruột mà Thừa phát lại là ông, bà,
bác, chú, cậu, cô, dì.
Thừa phát lại không được lập vi bằng trong các trường hợp vi phạm
quy định về bảo đảm an ninh, quốc phòng; vi phạm bí mật đời tư theo quy định tại
Điều 38 của Bộ luật dân sự; các trường hợp thuộc thẩm quyền công chứng của tổ
chức hành nghề công chứng hoặc thuộc thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân
các cấp và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Một
vấn đề pháp lý đặt ra hiện nay là: Thừa
phát lại được quyền lập vi bằng để ghi nhận lại diễn biến của một phiên Tòa?
Đây cũng chính là vấn đề mà tác giả muốn gửi đến quý vị đọc giả, trong phạm vi
bài viết này tác giả phân tích việc lập vi bằng đối với phiên Tòa Dân sự
Tại sao phải lập vi bằng để ghi nhận lại
diễn biến phiên Tòa?
Vừa
qua, báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã có bài báo phản án một phiên Tòa phúc
thẩm tại tỉnh Tây Ninh với tựa đề: Sai
phạm “động trời” tại TAND tỉnh Tây Ninh: Tuyên án một đằng, ban hành một nẻo, qua
tựa đề bài báo thì trong chúng ta ai cũng đã thấy được sự khác biệt giữa nội
dung “tuyên án” và nội dung “bản án” được ban hành sau khi xét xử. Với sự khác
biệt này thì người có quyền lợi ích xâm phạm rất khó đòi lại được quyền lợi của
mình, đặc biệt đó là một phiên Tòa phúc thẩm nên bản án sẽ có hiệu lực ngay sau
khi tuyên án, đương sự không còn quyền kháng cáo như ở cấp sơ thẩm. Đương sự muốn
thay đổi nội dung bản án thì phải làm đơn khiếu nại hoặc là làm đơn đề nghị
giám đốc thẩm, tuy nhiên để yêu cầu được chấp nhận thì đó là một quá trình rất
khó khăn và lâu dài vì thiếu chứng cứ để chứng minh Hội đồng xét xử đã có sự
sai phạm trong quá trình tiến hành tố tụng.
Bên
cạnh đó, hiện nay việc ghi nhận lại diễn biến phiên Tòa là trách nhiệm của thư
ký phiên Tòa, theo quy định tại Điều 211 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì biên bản
phiên Tòa phải ghi nhận những nội dung: Mọi
diễn biến tại phiên tòa từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên tòa; Các câu
hỏi, câu trả lời và phát biểu tại phiên tòa. Thử hỏi có bao nhiêu thư ký có
thể ghi nhận lại đầy đủ, trung thực, khách quan nội dung trên? Ngoài ra điều luật
cũng quy định những người tham dự phiên Tòa có quyền được xem biên bản phiên Tòa
ngay sau khi kết thúc phiên Tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản
phiên Tòa và ký xác nhận. Nhưng có bao nhiêu người đã tham gia tố tụng yêu cầu
xem và được xem lại biên bản phiênTòa sau khi xét xử, kể cả Luật sư? Việc không
xem biên bản phiên Tòa là do nhiều nguyên nhân: Đương sự hầu như không mấy ai
biết quyền này; luật sư thì biết nhưng ngại “va chạm” với Tòa; rất nhiều phiên
Tòa thư ký không ghi biên bản tại phiên Tòa mà chỉ ngồi nghe sau này mới hoàn
thiện nên sau khi kết thúc phiên Tòa sẽ không có biên bản để xem. Một thực tế
hiện nay không thể chối cãi được là ý kiến của luật sư trong phiên Tòa đã không
được ghi nhận lại một cách đầy đủ, chính xác, đã làm ảnh hưởng nhiều đến quyền
lợi của đương sự mà mình bảo vệ.
Qua
đó cho thấy, nếu để quá trình tố tụng diễn ra như hiện nay thì việc thay đổi nội
dung, diễn biến phiên Tòa so với biên bản phiên Tòa và nội dung bản án là tương
đối dễ dàng.
Làm cách nào để có thể ghi nhận, phản
ánh trung thực diễn biến phiên Tòa?
Khoản
2 Điều 211 Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định : “Ngoài việc ghi biên bản phiên tòa, việc ghi âm, ghi hình về diễn biến
phiên tòa chỉ có thể được tiến hành khi được sự đồng ý
của Hội đồng xét xử”. Điều đó có nghĩa, nếu các bên tham gia phiên
Tòa khi muốn ghi nhận lại diễn biến phiên Tòa để làm cơ sở khiếu nại hoặc giám
đốc thẩm thì phải XIN phép Hội đồng xét xử và phải được sự ĐỒNG Ý của Hội đồng
xét xử mới có thể tiến hành. Rõ ràng việc quy định như trên sẽ tạo ra sự tùy tiện
trong quá trình xét xử, luật đã cho Hội đồng xét xử một quyền quá lớn, cho hoặc không cho việc ghi âm, ghi hình diễn biến phiên Tòa? Trong khi
nguyên tắc xét xử được quy định tại Điều 15 là “xét xử công khai”. Một khi Hội
đồng xét xử “nghiêng” về “một bên” thì “bên còn lại” xem như “hết cửa” ghi âm,
ghi hình.
Thừa phát lại được quyền lập vi bằng
trong trường hợp này?
Theo
sự phân tích ở phần phạm vi và thẩm quyền lập vi bằng của Thừa phát lại ở trên
và căn cứ vào Điều 15 Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định nguyên tắc “xét xử công khai” thì việc lập vi bằng
để ghi nhận lại diễn biến phiên Tòa thuộc những sự kiện, hành vi mà Thừa phát lại
được phép thực hiện.
Thừa phát lại có quyền tự mình lập vi bằng
mà không có sự đồng ý của Hội đồng xét xử?
Theo
tác giả thì nếu vi bằng được lập mà không có sự đồng ý của Hội đồng xét xử thì
vi bằng đó là không hợp pháp, bởi lẽ Khoản 2 Điều 211 đã quy định ngoài việc
ghi biên bản phiên Tòa việc ghi âm, ghi hình về diễn biến phiên tòa chỉ có thể
được tiến hành khi được sự đồng ý của Hội đồng xét xử. Điều luật không loại trừ
trường hợp Thừa phát lại lập vi bằng thì không cần sự cho phép của Hội đồng xét
xử, nguyên nhân có lẽ là do chế định Thừa phát lại là một chế định mới và đang
được thí điểm áp dụng nên khi sửa đổi Bộ luật Tố tụng Dân sự, nhà lập pháp vẫn
chưa thay đổi quy định trên.
Tuy
nhiên, hiện nay Chế định Thừa phát lại đang được mở rộng phạm vi thí điểm và
cũng đang từng bước khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong việc cải
cách tư pháp, thiết nghĩ trong thời gian tới cơ quan có thẩm quyền cần có thêm
quy định để hướng dẫn cụ thể về quyền lập vi bằng của Thừa phát lại tại các
phiên Tòa Dân sự, nhằm đảm bảo sự khách quan, trung thực trong quá trình xét xử,
đảm bảo được tốt nhất lợi ích của các đương sự, góp phần tạo sự công bằng trong
xã hội và hướng đến một Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
QUYẾT
QUYỀN
[1]
Thực chất chế định Thừa phát lại là không mới vì dưới thời Pháp thuộc thì chế định
này đã được áp dụng trên lãnh thổ nước ta
0 comments:
Post a Comment